Khe hở môi vòm miệng là gì? Các công bố khoa học về Khe hở môi vòm miệng

Khe hở môi vòm miệng được định nghĩa là một khe rỗng, không có mô lành mạnh hoặc xương hàm chưa hoàn thiện ở môi trên. Đây là một khuyết tật bẩm sinh và có thể ...

Khe hở môi vòm miệng được định nghĩa là một khe rỗng, không có mô lành mạnh hoặc xương hàm chưa hoàn thiện ở môi trên. Đây là một khuyết tật bẩm sinh và có thể xảy ra khi môi cleft (khe hở môi) và vòm miệng cleft (khe hở vòm miệng) xảy ra cùng lúc. Khe hở môi vòm miệng thường được sửa chữa thông qua phẫu thuật để tạo ra hình dạng bình thường của môi và vòm miệng.
Khe hở môi vòm miệng là một khuyết tật bẩm sinh trong quá trình phát triển của môi và vòm miệng của thai nhi trong tử cung. Khi môi và vòm miệng không kết hợp hoàn toàn trong quá trình hình thành, sẽ tạo ra một hoặc nhiều khe hở.

Khe hở môi vòm miệng có thể xảy ra ở môi trên hoặc dưới, đôi khi cả hai môi đều bị ảnh hưởng. Hoàn toàn có thể có một khe nhỏ hoặc khe lớn và có thể kéo dài từ môi đến vòm miệng.

Nguyên nhân chính của khe hở môi vòm miệng vẫn chưa rõ ràng, tuy nhiên, yếu tố di truyền và môi trường đã được xác định có ảnh hưởng đến khả năng phát triển khuyết tật này. Một số yếu tố có thể góp phần vào sự hình thành khe hở môi vòm miệng bao gồm:

1. Yếu tố di truyền: Có nguồn gốc gia đình với nhiều thành viên trong gia đình bị khe hở môi vòm miệng.

2. Môi trường: Một số yếu tố môi trường nhất định, chẳng hạn như thuốc lá, cồn, thuốc nghiện, thuốc lá điện tử, thuốc bổ sung, liệu pháp xạ trị và nhiều chất phụ gia hóa học khác đã được liên kết với khả năng phát triển khuyết tật này.

3. Malnutrition: Thiếu hụt các dưỡng chất cần thiết trong giai đoạn phát triển thai nhi cũng có thể góp phần vào sự hình thành khe hở môi vòm miệng.

Để sửa chữa khe hở môi vòm miệng, phẫu thuật được thực hiện nhằm tái tạo và sửa chữa hình dạng bình thường của môi và vòm miệng. Quá trình phẫu thuật có thể phức tạp và yêu cầu đội ngũ y tế chuyên gia, bao gồm nha sĩ, bác sĩ phẫu thuật, chuyên gia nói và ngôn ngữ và các chuyên gia tầm soát giao tiếp.

Sau phẫu thuật, các liệu pháp nhiều lần có thể cần thiết nhằm hỗ trợ phục hồi hoàn toàn chức năng của môi và vòm miệng, bao gồm kỹ thuật phát âm, ngôn ngữ và dạy nói.
Khe hở môi vòm miệng là một khuyết tật phổ biến, ảnh hưởng đến sự kết hợp của môi và vòm miệng. Khi còn ở giai đoạn tử cung, khi các môi và vòm miệng đang hình thành, một phần của chúng không kết hợp hoàn toàn, tạo ra khe hở.

Khe hở môi vòm miệng có thể có rất nhiều biến thể, từ khe nhỏ như chỉ một khe nhỏ trên môi đến khe lớn liên quan đến cả môi và vòm miệng. Có thể xảy ra khe hở môi vòm miệng ở môi trên hoặc dưới, hoặc cả hai môi cùng bị ảnh hưởng.

Nguyên nhân cụ thể của khe hở môi vòm miệng chưa được tìm ra rõ ràng, nhưng một số yếu tố có thể đóng vai trò trong sự phát triển khuyết tật này. Yếu tố di truyền được xem là một yếu tố quan trọng, với nhiều trường hợp có di truyền trong gia đình. Môi trường cũng có thể đóng vai trò, ví dụ như việc sử dụng thuốc lá, rượu, ma túy, hoặc các chất gây ác tính khác. Các yếu tố môi trường này có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển của môi và vòm miệng.

Sửa chữa khe hở môi vòm miệng thường yêu cầu một quá trình phẫu thuật đa giai đoạn. Đầu tiên, sẽ tiến hành phẫu thuật sửa khe hở môi, điều chỉnh và tái tạo hình dạng bình thường cho môi. Sau khi môi đã được sửa chữa, sẽ tiếp tục thực hiện phẫu thuật để sửa khe hở vòm miệng. Quá trình này nhằm tái tạo và xây dựng lại vòm miệng, để đạt được sự phù hợp hoàn hảo giữa môi và vòm miệng.

Sau phẫu thuật, việc hỗ trợ và chăm sóc kỹ thuật phát âm, ngôn ngữ và luyện nói là cần thiết. Chuyên gia trong lĩnh vực này sẽ hướng dẫn và đào tạo cách nói và ngôn ngữ phù hợp, nhưng cũng có thể sử dụng các phương pháp điều trị khác như kỹ thuật dùng ống thông hơi hoặc đào tạo ngôn ngữ thính học.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "khe hở môi vòm miệng":

Xây dựng phác đồ điều trị âm ngữ trị liệu cho trẻ bị khe hở môi, vòm miệng và hiệu quả ứng dụng tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 năm 2014
800x600 Qua quá trình can thiệp âm ngữ trị liệu cho 79 ca (từ 01-01-2014   đến 11-2014) dựa trên nguyên tắc lấy bệnh nhân làm trung tâm, chúng tôi nhận thấy cần cung cấp dịch vụ xuyên suốt, từ tư vấn tiền sản đến can thiệp bú - nuốt, và cần có chương trình huấn luyện Ngôn ngữ - Chỉnh âm. Ở mỗi giai đoạn trong quá trình can thiệp, cần có mục tiêu và kế hoạch cụ thể. Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi cho rằng: để có được kết quả tối ưu khi điều trị cho trẻ có khe hở môi - vòm miệng, trẻ cần được chăm sóc can thiệp bởi đội ngũ làm việc đa ngành: bác sĩ răng-hàm-mặt, bác sĩ nhi khoa, điều dưỡng, chuyên viên âm ngữ trị liệu, giáo viên và phụ huynh. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif";}
#khe hở môi vòm miệng #phác đồ điều trị khe hở môi vòm miệng #âm ngữ trị liệu trẻ bị khe hở môi vòm miệng #hiệu quả của việc ứng dụng
ĐẶC ĐIỂM DỊ TẬT KHE HỞ MÔI VÀ/HOẶC VÒM MIỆNG Ở TRẺ EM ĐẾN KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN RĂNG HÀM MẶT TRUNG ƯƠNG HÀ NỘI NĂM 2019-2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Nhằm mô tả các đặc điểm nhân khẩu học và một số đặc điểm về cân nặng, răng miệng hay những khó khăn mà trẻ mắc dị tật khe hở môi và/hoặc vòm miệng thường gặp phải. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 196 trẻ dưới 15 tuổi có dị tật ke hở môi và/hoặc vòm miệng đến khám và điều trị tại Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội. Kết quả: Tỷ lệ trẻ nam mắc dị tật (64,8%) lớn hơn nữ (35,2%). Phần lớn trẻ sinh ra trong gia đình có địa vị kinh tế và học vấn thấp hoặc trung bình, người cha có thói quen sử dụng rượu và thuốc lá. Khoảng 60% trẻ gặp khó khăn khi ăn và bú, tiếp đến là vấn đề về nói, giao tiếp và bệnh nhiễm trùng. Phần lớn trẻ có cân nặng bình thường nhưng tỷ lệ thiếu cân tương đối cao, chiếm 12,8%. Nhìn chung, trẻ thường gặp các vấn đề về răng miệng, trong đó được báo cáo nhiều nhất là thiếu chỗ mọc răng (45,9%), bất thường về vị trí (38,8%) và chậm mọc răng (25,5%), trong khi hơn 16% cha mẹ không biết về các vấn đề răng miệng. Kết luận: Tỷ lệ trẻ nam mắc dị tật nhiều hơn trẻ nữ. Tỷ lệ trẻ mắc dị tật khe hở môi hoặc vòm miệng đơn thuần nhiều gấp hơn 2 lần tỷ lệ trẻ mắc đồng thời hai dị tật này. Cha mẹ của trẻ có trình độ học vấn và kinh tế ở mức thấp hoặc trung bình. Tỷ lệ người mẹ hút thuốc lá thụ động khá cao. Khó khăn khi cho ăn, khi bú và vấn đề răng miệng thường gặp nhất và cần sự quan tâm của cha mẹ.
#Đặc điểm #Khe hở môi và/hoặc vòm miệng #Trẻ em Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội
A new technique of two iliac cortical bone blocks sandwich technique for secondary alveolar bone grafting in cleft lip and palate patients
Objectives: To describe in detail treatment procedure and outcomes of a new technique of two iliac cortical bone blocks sandwich for alveolar cleft in patients with unilateral cleft palate. Materials and methods: Based on previous techniques, our clinical experience with 32 cleft sites had confirmed the alveolar cleft bone graft outcomes and implant success with new technique of two iliac cortical bone blocks sandwich. Patient selection criteria was patients over 15 years old, patients in good health for endotracheal anesthesia, patients already had palatoplasty, patients with complete unilateral alveolar cleft, lack of permanent tooth germ in the cleft and did not receive any alveolar cleft bone graft. The patients underwent general dental treatment and pre-surgical orthodontic treatment. Any tooth extraction was performed 2 months before bone graft if necessary. All patients underwent late secondary bone grafting for alveolar cleft. This paragraph focused on introducing new technique and clinical results with follow-up time of 96 months after alveolar bone grafting. Results: After 4 to 6 months, 100% of cases showed good mucosal healing. After 4 to 6 months' follow-up, the bone formation score I was 90.6% in 29 patients and score III was 9.4% in 3 patients. After 90 months, all 18 implants were recorded success in 15 patients remained follow-up. Conclusion: A new treatment method was suggested for patients with cleft lip and palate defect, not only to recover the function but also to meet the esthetic demand helping patients communicate confidently for community integration.
#ghép xương khe hở ổ răng #khe hở môi và vòm miệng #khe hở ổ răng một bên #cấy ghép nha khoa
SỰ THAY ĐỔI HÌNH THÁI CUNG RĂNG HÀM TRÊN SAU PHẪU THUẬT TẠO HÌNH MÔI TOÀN BỘ MỘT BÊN TRÊN HÌNH ẢNH 3D
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Phân tích và đánh giá sự thay đổi hình thái cung răng hàm trên ở trẻ sau phẫu thuật tạo hình môi toàn bộ một bên. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu thực hiện trên 15 trẻ bị dị tật khe hở môi-vòm miệng một bên, điều trị tại bệnh viện Răng- Hàm -Mặt Mỹ Thiện, Tp. Hồ Chí Minh. Các bệnh nhân đủ điều kiện tham gia nghiên cứu được lấy dấu hàm trên trước phẫu thuật, sau phẫu thuật 3 tháng và 6 tháng. Mẫu hàm thạch cao sau khi đổ mẫu sẽ được quét 3D, đánh dấu các điểm mốc giải phẫu, đo đạc tuyến tính khoảng cách các điểm mốc và so sánh sự thay đổi kích thước cung răng giữa các thời điểm lấy dấu. Kết quả: Độ rộng khe hở cung răng giảm còn gần 1/3 so với trước khi phẫu thuật  (ΔGL= -8.37mm), có sự xoay của mấu tiền hàm về phía khẩu cái (ΔGIC= -13.78°, ΔGCC’= -13.96°). Sự thay đổi theo chiều ngang ở vùng lồi củ, vùng giữa hai ụ nanh và kích thước trước sau dường như không có sự thay đổi đáng kể. Kết luận: Ở trẻ bị dị tật khe hở môi toàn bộ một bên, sau phẫu thuật tạo hình môi, có sự tự khép lại của cung răng hai bên khe hở, xuất hiện “hiệu ứng đóng” mảnh khẩu cái làm cho hai mảnh khép lại gần nhau mà không cần sử dụng các khí cụ hỗ trợ. Có sự chậm phát triển độ rộng khẩu cái trước. Độ rộng khẩu cái sau phát triển bình thường.
#Khe hở môi-vòm miệng #tạo hình môi #khe hở cung răng #mấu tiền hàm
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ KHE HỞ VÒM MIỆNG HAI BÊN TOÀN BỘ BẨM SINH THEO KỸ THUẬT PUSH BACK TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI NGHỆ AN NĂM 2018 - 2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả liền thương, đóng kín khe hở sau phẫu thuật điều trị khe hở vòm miệng (KHVM) hai bên toàn bộ bẩm sinh theo kỹ thuật push-back và nêu một số đặc điểm lâm sàng khe hở vòm miệng hai bên toàn bộ được phẫu thuật điều trị theo kỹ thuật này. Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang kết hợp hồi cứu, tiến cứu cỡ mẫu 38 BN đủ tiêu chuẩn bị KHVM hai bên toàn bộ bẩm sinh từ tháng 01/2018-08/2021 tại khoa Răng Hàm Mặt - BV Sản Nhi Nghệ An. Kết quả: Nam 25 BN (65,79 %); Nữ 10 BN (34,21 %); Ở nhóm tuổi ≤24 tháng: 8 (21,05%) BN; Nhóm >24-48 tháng: 60,53% (23 BN). Do di truyền: 18,42% (7 BN); mẹ bị cúm trong 3 tháng đầu mang thai: 34,21% (13 BN); không rõ nguyên nhân: 47,37% (18 BN). KHVM đơn thuần 4 BN (10,53%). KHVM kèm theo KHM 34 BN (89,47%). Nhóm nam: KHVM đơn thuần 12%; KHVM kết hợp KHM 88,00%. Nhóm nữ: KHVM đơn thuần 7,69%, KHVM kết hợp KHM 92,31%. Kích thước KHVM rộng 1-2 cm cao nhất 30 BN (78,95%); KHVM rộng >2 cm: 03 BN (21,05%). Không có biến chứng sau mổ 34 BN (89,47%). Kết luận: Tỷ lệ nam/nữ: 2/1; tuổi PT trung bình: 36,62±20,90 tháng (min 16, max 72 tháng (6 tuổi)): Nhóm tuổi  ≤24 tháng: 21,05%; Nhóm >24-48 tháng: 60,53%; Nhóm >48-<72 tháng: 15,79%; Thấp nhất tuổi ≥72 tháng: 2,63%. Nguyên nhân: mẹ ốm 03 tháng đầu mang thai: 34,21%; di truyền 18,42%; không rõ 46,37%.
#Khe hở vòm miệng hai bên #khe hở môi #phẫu thuật #trẻ em
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VÀ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG CHO TRẺ EM MẮC DỊ TẬT KHE HỞ MÔI VÀ/HOẶC VÒM MIỆNG TẠI BỆNH VIỆN RĂNG HÀM MẶT TRUNG ƯƠNG HÀ NỘI NĂM 2019-2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Nhằm đánh giá kết quả điều trị và phục hồi chức năng sau phẫu thuật của trẻ mắc dị tật khe hở môi và/hoặc vòm miệng. Phương pháp nghiên cứu: Tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 196 trẻ dưới 15 tuổi có dị tật ke hở môi và/hoặc vòm miệng đến khám và điều trị tại Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội năm 2019-2021. Kết quả: Tỷ lệ xuất hiện biến chứng sớm sau mổ 1 tuần khá cao (58,7%), trong đó tụ máu, bầm tím thường gặp nhất (83,5%). Khả năng nhai được cải thiện rõ rệt nhất sau phẫu thuật và đạt trên 85% sau 6 tháng, tiếp đến là khả năng phát âm. Tỷ lệ sẹo co kéo nhẹ và sẹo to mất thẩm mỹ sau 1 tháng và 6 tháng mổ vẫn chiếm đa số. Trẻ có biểu hiện, thay đổi tích cực để hòa nhập với cộng đồng, xã hội. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy tác động tích cực của phẫu thuật trong cải thiện sức khỏe thể chất, tâm thần và chức năng của trẻ mắc dị tật khe hở môi và/hoặc vòm miệng mặc dù tỷ lệ biến chứng sớm sau phẫu thuật khá cao. Tuy nhiên trẻ vẫn phải đối mặt với một số rào cản để hòa nhập, thích nghi với cộng đồng.
#Kết quả điều trị #Phục hồi chức năng #Sau phẫu thuật #Trẻ em #Khe hở môi và/hoặc vòm miệng
ĐÁNH GIÁ ĐIỀU TRỊ KHE HỞ VÒM MIỆNG TẠI BỆNH VIỆN SẢN-NHI TỈNH QUẢNG NGÃI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Khe hở vòm miệng (KHVM) là dị tật bẩm sinh vùng hàm mặt làm tách rời cấu trúc vòm miệng bao gồm xương vòm miệng, khối cơ nâng vòm hầu, cơ căng màn hầu và niêm mạc. KHVM tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng lại gây ra những khó khăn trong ăn uống, giao tiếp. Trong điều trị KHVM cần phải có kế hoạch điều trị toàn diện từ lúc trẻ được sinh ra đến khi trưởng thành với sự phối hợp của nhiều chuyên khoa. Cho đến nay, chưa có đề tài nghiên cứu về điều trị KHVM tại Quảng Ngãi. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và đánh giá kết quả phẫu thuật của người bệnh KHVM điều trị tại Bệnh viện Sản - Nhi tỉnh Quảng Ngãi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu lâm sàng mô tả, tiến cứu và theo dõi dọc thực hiện trên 32 người bệnh bị KHVM bẩm sinh được khám và điều trị phẫu thuật tại Bệnh viện Sản - Nhi tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian từ 01/2021 đến 08/2021. Kết quả: Đặc điểm lâm sàng: gồm 32 người bệnh khe hở vòm miệng 23 nam, 09 nữ, tuổi hay gặp 12-24 tháng. Lý do vào viện do nói ngọng chiếm tỷ lệ 56,2% (18/32), sặc khi ăn uống 43,8% (14/32). Sâu răng trên 2 răng chiếm 40,6%. Người mẹ bị ốm đau trong ba tháng đầu mang thai có con KHVM chiếm 34,4% (11/34). Khe hở vòm miệng toàn bộ bên phải chiếm tỷ lệ cao nhất 40,6% (13/32), bên trái 18,8% (6/32), KHVM mềm cứng 31,3% (10/32); khe hở vòm miệng kết hợp khe hở môi là 62,5% (20/32). Chiều rộng của khe hở vòm miệng ở vị trí gai mũi sau trung bình 16,1±3,4 mm. Chiều dài vòm mềm trung bình trước và sau mổ lần lượt là 20,84±3,44 mm và 29,13±3,24 mm tăng được 39,78%. Thời gian phẫu thuật trung bình 85,47±8,17 phút. Kết quả phẫu thuật: Kết quả tốt sau mổ đạt 96,6% (31/32), 01 trường hợp bục chỉ vết mổ. Tái khám sau 2 tháng, vết mổ tốt chiếm 90,6%; và 9,45% (3/32) người bệnh có lỗ thông mũi miệng. Kết luận: Đặc điểm lâm sàng thường gặp gồm khe hở vòm miệng toàn bộ bên phải, bên trái, khe hở vòm miệng mềm cứng, khe hở vòm miệng kết hợp với khe hở môi. Phẫu thuật KHVM tại bệnh viện Sản Nhi tỉnh Quảng Ngãi đạt kết quả khả quan, thời gian mổ chấp nhận được. Tái khám sau 2 tháng vết mổ tốt chiếm 90,6% (29/32);
#Khe hở vòm miệng #Dị tật vùng hàm mặt #Sứt môi #Điều trị khe hở vòm miêng #Bệnh viện Sản-Nhi tỉnh Quảng Ngãi
Xây dựng bài tập chỉnh âm kết hợp giáo dục ngôn ngữ cho học sinh tiểu học bị khe hở môi, vòm miệng sau phẫu thuật
Th ực nghiệm chỉnh âm kết hợp giáo dục ngôn ngữ cho 2 học sinh tiểu học được thực hiện nhằm chứng minh giả thuyết: Việc phục hồi chức năng lời nói cho trẻ bị khe hở môi, vòm miệng sau phẫu thuật cần phải kết hợp giữa sửa lỗi phát âm với giáo dục ngôn ngữ; các bài tập (BT) chỉnh âm cho trẻ em không thể tách rời việc dạy sử dụng từ, câu, ngôn bản trong hoạt động giao tiếp. Kết quả nghiên cứu góp phần chứng minh giả thuyết nghiên cứu trên là đúng và can thiệp sớm cho trẻ dị tật là hoạt động quan trọng không thể thiếu. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman Bold","serif";}
#bài tập chỉnh âm #giáo dục ngôn ngữ #khe hở môi và vòm miệng #học sinh tiểu học #hoạt động giao tiếp
Rủi ro liên quan đến môi môi và/hoặc khe hở vòm miệng do thuốc chống động kinh: Phát hiện tín hiệu an toàn sau tiếp thị và đánh giá thông tin trình bày cho người kê đơn và bệnh nhân Dịch bởi AI
Therapeutic Innovation & Regulatory Science - Tập 53 - Trang 110-119 - 2019
Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích dữ liệu an toàn liên quan đến việc sử dụng thuốc chống động kinh của mẹ trong thai kỳ và đánh giá rủi ro của môi môi và/hoặc khe hở vòm miệng (CL/P) như một kết quả ở trẻ sơ sinh. Mục tiêu song song là đánh giá tính đầy đủ của thông tin an toàn liên quan đến các tiếp xúc trong thai kỳ ở Tóm tắt đặc điểm sản phẩm (SmPCs) và Thông tin về bệnh nhân (PI) ở Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Chúng tôi đã phân tích các báo cáo an toàn ca cá nhân về CL/P liên quan đến thuốc chống động kinh trong Hệ thống báo cáo hiện tượng bất lợi của FDA. Đối với những thuốc chống động kinh có tín hiệu (EB05 ≥ 2), chúng tôi đã xem xét Sổ phân tích thuốc cho các trường hợp CL/P trong Cơ quan quản lý sản phẩm y tế và chăm sóc sức khỏe Vương quốc Anh (MHRA). Chúng tôi đã thực hiện các phân tích mô tả các SmPCs và PIs liên quan ở Vương quốc Anh và Hoa Kỳ bằng cách sử dụng danh sách kiểm tra các khuyến nghị thu thập từ tài liệu. Tổng cộng có 817 báo cáo CL/P được xác định cho 12 thuốc chống động kinh trong Hệ thống báo cáo hiện tượng bất lợi của FDA. Mười trong số 12 thuốc chống động kinh được xác định có liên quan đến 156 trường hợp CL/P trong MHRA Sentinel. Thông tin an toàn liên quan đến thai kỳ được tìm thấy đầy đủ hơn trong các SmPC của Vương quốc Anh so với các phiên bản tương đương của Hoa Kỳ. Có sự không cân xứng thống kê trong các báo cáo an toàn ca cá nhân cho thấy có nguy cơ tăng cao của CL/P với 12 thuốc chống động kinh được nghiên cứu. Cần nhiều nghiên cứu hơn để khám phá mối liên hệ giữa tiếp xúc trong tử cung với thuốc chống động kinh và rủi ro CL/P. Có sự không nhất quán giữa các nhãn an toàn ở Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. CL/P liên quan đến thuốc chống động kinh là một chủ đề quan trọng và yêu cầu cung cấp thông tin đầy đủ, không thiên lệch, cập nhật cho những người kê đơn và phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
#thuốc chống động kinh #môi môi #khe hở vòm miệng #an toàn dược phẩm #thông tin bệnh nhân #nguy cơ thuốc
Kéo dài hàm trên bằng phương pháp neo xương ở bệnh nhân bị môi và vòm miệng không hoàn toàn bên trái và khớp cắn loại III Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 23 - Trang 2429-2441 - 2018
Nghiên cứu kiểm soát tiến cứu này đánh giá ảnh hưởng của liệu pháp kéo dài hàm trên neo xương ở trẻ em bị khe hở với khớp cắn loại III bằng cách sử dụng các mô hình bề mặt 3D từ CBCT. Mười tám bệnh nhân có khe hở từ 10 đến 12 tuổi đã được đưa vào nghiên cứu. Dây chun giữa hai hàm được sử dụng sau khi đặt bốn tấm xương gò má trong thời gian 18 tháng. Đáng chú ý, ba nhóm đối chứng không được điều trị có độ tuổi tương đương bao gồm cả bệnh nhân có khe hở và bệnh nhân không có khe hở với khớp cắn loại III cũng được điều tra. Hình ảnh chân dung và quét CBCT của mỗi bệnh nhân đã được thực hiện trước (T0) và 18 tháng sau khi kéo dài (T1). Các phép đo 3D được thực hiện trên các mô hình bề mặt CBCT từ nhóm điều trị bằng phương pháp lập bản đồ màu giải phẫu. Các phép đo xương sọ được thực hiện trên ảnh xương sọ bên được tái tạo từ các quét CBCT và được so sánh với nhóm đối chứng. Hai phần ba số bệnh nhân trong nhóm điều trị cho thấy sự cải thiện độ lồi của môi về phía hồ sơ khuôn mặt lồi hơn. Những thay đổi xương rõ ràng nhất trên các mô hình bề mặt 3D được quan sát thấy ở vùng gò má (trung bình dịch chuyển về phía trước, xuống dưới và ra ngoài là 1,5 mm) và ở phức hợp hàm trên (trung bình dịch chuyển về phía trước là 1,5 mm). Khi so với các nhóm đối chứng, các bệnh nhân trong nhóm điều trị cho thấy sự gia tăng đáng kể trong các góc SNA và ANB, tăng chỉ số Wits, sự di chuyển về phía trước của điểm A và cải thiện overjet (p < 0.05). Việc sử dụng BAMP ở bệnh nhân khe hở mang lại sự dịch chuyển đáng kể về phía trước của phức hợp xương gò má-hàm trên, có lợi cho điều trị khớp cắn loại III. Phương pháp điều trị này cho thấy kết quả rõ ràng có lợi cho bệnh nhân khe hở sau 1.5 năm điều trị BAMP.
#kéo dài hàm trên #khe hở #khớp cắn loại III #CBCT #mô hình bề mặt 3D
Tổng số: 14   
  • 1
  • 2